Giữa làn sóng tăng vốn kéo dài của ngành chứng khoán, các công ty chứng khoán ngoại lại lựa chọn đứng ngoài quan sát với rất ít động thái nhập cuộc.
Công ty chứng khoán ngoại chậm tăng vốn
Cuộc đua tăng vốn của các công ty chứng khoán những năm gần đây diễn ra liên tục và tạo ra sự biến động lớn trong bức tranh toàn ngành. Nhiều cái tên nhanh chóng vươn lên nhóm dẫn đầu về vốn điều lệ nhờ sự hậu thuẫn mạnh mẽ từ các ngân hàng mẹ như TCBS, VPBankS, HDS, ACBS…
Ở nhóm doanh nghiệp lớn, các công ty như SSI, VNDIRECT, VIX liên tục bận rộn với các phương án phát hành, chào bán cổ phiếu. Vị trí quán quân vốn điều lệ ngành chứng khoán có thời điểm thay đổi chỉ trong vài ngày với mức chênh lệch rất nhỏ. Ngay cả các công ty quy mô nhỏ cũng đã bứt phá và bước lên nhóm tầm trung sau nhiều vòng tăng vốn liên tiếp.
Tuy nhiên, giữa làn sóng tăng vốn kéo dài này, một nhóm lại lựa chọn đứng ngoài quan sát với rất ít động thái nhập cuộc: các công ty chứng khoán ngoại.
.png)
Gần đây nhất, thị trường ghi nhận Công ty Chứng khoán KIS, một trong số rất ít công ty chứng khoán ngoại quyết định tăng vốn. Theo kế hoạch, KIS sẽ chào bán gần 78,9 triệu cổ phiếu cho cổ đông hiện hữu, nâng vốn điều lệ từ 3.762 tỷ đồng lên hơn 4.551 tỷ đồng.
Việc KIS chậm chân gia nhập đường đua tăng vốn càng làm nổi bật sự đối lập giữa khối ngoại và khối nội trong bức tranh chung của ngành chứng khoán. Trao đổi với VietnamFinance, TS. Nguyễn Hồng Điệp, CEO Công ty Cổ phần VICK, cho rằng để lý giải hiện tượng này, cần nhìn vào mục đích tăng vốn của các công ty chứng khoán trong nước.
Theo ông, động lực tăng vốn của công ty chứng khoán nội không hẳn xuất phát từ nhu cầu thực tế của nhà đầu tư, bởi hoạt động cho vay ký quỹ có nhiều cách triển khai và không nhất thiết phải gắn với tăng vốn điều lệ.
Phần lớn các doanh nghiệp tăng vốn để phát hành trả cổ tức hoặc chuyển phần lợi nhuận lũy kế thành vốn. Ở chiều ngược lại, các công ty chứng khoán ngoại hầu như không cần tăng vốn bởi đằng sau họ là những tập đoàn tài chính quy mô lớn đến từ Hàn Quốc, Nhật Bản, bảo đảm nguồn vốn dồi dào.
Đối với các công ty thực hiện IPO hoặc niêm yết, TS. Nguyễn Hồng Điệp đánh giá hoạt động này đều phục vụ cho mục đích về mặt định giá - yếu tố mà phần lớn công ty chứng khoán ngoại không đặt nặng, bởi nhiều đơn vị không niêm yết hoặc không có kế hoạch lên sàn.
Từ đó, ông kết luận, sự khác biệt lớn nhất giữa công ty chứng khoán nội và ngoại nằm ở mục tiêu tăng vốn, khi các doanh nghiệp ngoại vốn đã sở hữu nguồn lực rất lớn và không chịu áp lực phải mở rộng quy mô thông qua tăng vốn điều lệ.
Khó vươn lên dẫn đầu
Một vấn đề được giới quan sát đặt ra khi các công ty chứng khoán chậm chân trong cuộc đua tăng vốn là tác động tới khả năng cạnh tranh với các đơn vị đang chạy đua thần tốc tăng vốn. Một nghiên cứu của VIS Rating hồi giữa năm 2024 đã chỉ ra rằng song song với việc chậm tăng vốn, tốc độ tăng trưởng kinh doanh của các công ty chứng khoán ngoại đã đi sau so với các công ty trong nước, từ dư nợ cho vay ký quỹ tới tỷ suất sinh lời, đều thấp hơn nhiều so với các công ty trong nước.
TS. Nguyễn Hồng Điệp nhận định năng lực cạnh tranh của công ty chứng khoán ngoại vốn đã yếu thế hơn trước đây do công ty chứng khoán nội ra đời sớm, sở hữu tệp khách hàng truyền thống và đã xây dựng được nền tảng thị phần vững chắc.
Tuy nhiên, tăng vốn không phải là yếu tố tạo ra lợi thế đáng kể. Ông Điệp cho rằng vốn điều lệ chỉ mang tính biểu tượng, trong khi nguồn vốn thực dùng để cho vay của các công ty chứng khoán ngoại lại rất lớn nhờ sự hậu thuẫn của tập đoàn mẹ. Vì vậy, dù không tăng vốn, họ vẫn cạnh tranh mạnh mẽ bằng lãi suất.
Theo đó, khả năng cho vay với lãi suất thấp hơn mặt bằng chung là một lợi thế nổi bật của công ty chứng khoán ngoại. Nguồn vốn dồi dào và mang tính “vốn thật”, không phụ thuộc vào các nguồn thứ ba, giúp họ đưa ra mức lãi suất hấp dẫn hơn nhiều so với công ty chứng khoán nội.
Bên cạnh đó, công ty chứng khoán ngoại còn nắm lợi thế tự nhiên khi tiếp cận khách hàng nước ngoài. Nhà đầu tư cá nhân lẫn tổ chức khi mới gia nhập thị trường Việt Nam thường tìm đến các công ty chứng khoán có nguồn gốc ngoại. Điều này giúp họ đón nhận dòng vốn ngoại và sự quan tâm của các nhà đầu tư toàn cầu. Dù thị trường đã cải thiện đáng kể về khả năng tiếp cận, song một số rào cản vẫn tồn tại, khiến công ty chứng khoán ngoại chủ yếu phục vụ nhóm nhà đầu tư ngoại này.
Ngoài ra, nhờ nhiều năm vận hành theo tiêu chuẩn quốc tế, công ty chứng khoán ngoại sở hữu kinh nghiệm thị trường, hệ thống giao dịch và nền tảng công nghệ ổn định, đồng bộ hơn.
“Theo tôi, việc công ty chứng khoán ngoại không tăng vốn chỉ ảnh hưởng về mặt hình ảnh. Còn thực chất, tệp khách hàng nào vẫn gắn bó với hệ thống đó. Trong đó, miếng bánh thị phần hiện nay phần lớn tập trung vào nhóm công ty chứng khoán nội như SSI, VCI, MBS, VNDIRECT hay các công ty mới nổi như VPS, VPBankS, TCBS, Kafi”, ông Nguyễn Hồng Điệp nhận định.
Vị chuyên gia này cho rằng, khả năng vươn lên top đầu ngành của công ty chứng khoán ngoại tại Việt Nam là rất hạn chế. Một phần nguyên nhân xuất phát từ tâm lý khách hàng: nhà đầu tư Việt có xu hướng gắn bó với những công ty chứng khoán đời đầu trong nước và ít có động lực chuyển đổi, dù Nhà nước cho phép mở nhiều tài khoản ở nhiều công ty khác nhau.
Một hạn chế khác đến từ yếu tố nhân sự. Cán bộ chủ chốt tại nhiều công ty chứng khoán ngoại là người Hàn Quốc hoặc Nhật Bản. Điều này khiến khả năng thích ứng với biến động thị trường, chính sách mới hoặc hành vi nhà đầu tư trong nước có độ trễ nhất định khi so với đội ngũ giàu kinh nghiệm địa phương. Đây là yếu tố khiến công ty chứng khoán ngoại khó bắt nhịp nhanh bằng các doanh nghiệp nội.





