“Các con rồng châu Á như Nhật Bản hay Hàn Quốc đã lựa chọn con đường lấy chất lượng làm động lực tăng năng suất lao động”, PGS.TS. Phan Chí Anh, Viện trưởng Viện Quản trị kinh doanh, trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, trao đổi với Kinh tế Sài Gòn.
Chất lượng là động lực tăng năng suất
KTSG: Thưa ông, nền kinh tế Việt Nam đang nhắm đến việc đạt tốc độ tăng năng suất lao động trung bình 8,5%/năm trong giai đoạn 2026-2030. Từ góc độ của một người nghiên cứu về vấn đề năng suất chất lượng, ông bình luận như thế nào về mục tiêu trên?
- PGS.TS. Phan Chí Anh: Chúng ta đã thấy, nền kinh tế của nhiều quốc gia trong khu vực và trên thế giới bắt đầu tăng trưởng rất tốt, sau đó chững lại và họ bị mắc kẹt trong bẫy thu nhập trung bình. Vậy nên, việc đặt ra mục tiêu năng suất lao động của toàn nền kinh tế tăng tốc trung bình 8,5%/năm là cần thiết. Tốc độ tăng năng suất lao động trung bình thậm chí còn phải cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP trung bình trong giai đoạn bước vào kỷ nguyên mới hiện nay.
Về năng suất chất lượng, từ năm 2010, chúng ta đã có chương trình quốc gia hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. Chất lượng (gồm có chất lượng sản phẩm, chất lượng nguồn nhân lực...) được xác định là động lực để tăng năng suất lao động. Đây là con đường phù hợp với các nước đang phát triển, nền kinh tế có điểm xuất phát tương đối thấp, chưa khai thác được các động lực tăng năng suất lao động khác. Nhìn rộng hơn, các con rồng châu Á như Nhật Bản hay Hàn Quốc đã lựa chọn con đường lấy chất lượng là động lực tăng năng suất lao động và đã thành công. Việt Nam gắn vấn đề tăng năng suất lao động với chất lượng là vì vậy.

Chất lượng là động lực tăng năng suất. Ảnh minh họa: DNCC
KTSG: Ông nhìn nhận như thế nào về tốc độ tăng năng suất chất lượng của doanh nghiệp Việt Nam trong giai đoạn 2020-2025?
- Đầu tiên, vẫn nên đề cập tới năng suất lao động. Trong giai đoạn 2020-2025, tốc độ tăng năng suất lao động bình quân là khoảng 5,3%/năm, một mức tương đối tốt so với nhiều nước trong khu vực.
Tuy nhiên, xét về giá trị tuyệt đối, năng suất lao động của Việt Nam đang có một khoảng cách rất xa so với các nước phát triển như Hàn Quốc, Nhật Bản hay Singapore, và vẫn thua kém các nước có trình độ kinh tế tương đương trong khu vực như Thái Lan, Malaysia, Indonesia. Xét về tốc độ tăng năng suất lao động, dù sự tăng trưởng được ghi nhận ở mọi năm nhưng nó không đồng đều, không bền vững, trở thành một đường tuyến tính nhưng còn xa mới đạt mục tiêu đề ra cho giai đoạn này là 6,5%/năm.
Tiếp đến là về chất lượng sản phẩm. Chất lượng sản phẩm của Việt Nam có tăng. Tuy vậy, những đột phá về chất lượng sản phẩm của Việt Nam chưa rõ ràng. Hiện tại, tỷ lệ hài hòa của tiêu chuẩn Việt Nam với tiêu chuẩn quốc tế mới được khoảng 70-80%. Chỉ khi nào con số này là 100%, chất lượng hàng hóa của Việt Nam mới có cơ sở đạt chuẩn quốc tế.
Như vậy, trong những năm qua, cả năng suất lao động và năng suất chất lượng đều tăng nhưng chưa đạt mức mà chúng ta có thể hài lòng và an tâm.
Bắt đầu từ doanh nghiệp vừa
KTSG: Thưa ông, đâu là điểm nghẽn khiến năng suất lao động và năng suất chất lượng không có những sự tiến bộ như kỳ vọng?
- Muốn tăng được năng suất lao động, chúng ta phải có quy trình quản trị tốt, sự cải tiến về công nghệ, sản phẩm và phải sáng tạo thêm được giá trị gia tăng trong mỗi khâu của quy trình sản xuất. Doanh nghiệp cần đến bốn yếu tố căn bản, gồm vốn, nhân lực, quản trị, áp dụng công nghệ mới như trí tuệ nhân tạo (AI), Internet vạn vật (IoT)..., vào sản xuất. Nghĩa là họ phải đầu tư vốn, đào tạo con người, quản trị theo các tiêu chí, chuẩn mực tiên tiến của thế giới và ứng dụng công nghệ để tạo ra sự đột phá. Trong quá trình này, chất lượng lao động, chất lượng sản phẩm sẽ gia tăng, nghĩa là năng suất chất lượng được cải thiện.
Trung tâm điều khiển quá trình này là doanh nghiệp. Giống như gia đình là tế bào của xã hội, doanh nghiệp là tế bào của nền kinh tế. Năng suất lao động của toàn nền kinh tế sẽ tăng khi năng suất lao động ở mỗi doanh nghiệp tăng trước.
Vấn đề nằm ở chỗ trong suốt nhiều năm qua, tăng năng suất lao động không phải là mối quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp. Khoảng 90% doanh nghiệp nội địa coi việc tồn tại được, nghĩa là làm sao có đơn hàng, dòng tiền... mới là điều quan trọng nhất. Họ chưa đặt trọng tâm tới việc tối ưu hóa về quản trị, đầu tư cho đào tạo nhân lực, tối ưu hóa quá trình và hiệu quả công việc, ứng dụng công nghệ mới...
Để thúc đẩy được năng suất lao động, việc đầu tiên là phải làm cho doanh nghiệp ý thức rõ đây là vấn đề sống còn cho sự tồn tại lâu dài, bền vững của họ. Nhà nước khuyến khích, hỗ trợ nhưng cũng cần có các cách thức gây sức ép lành mạnh để doanh nghiệp phải thay đổi tư duy hướng tới mục tiêu tăng năng suất này.
KTSG: Bắt tay vào công cuộc cải thiện năng suất lao động trong doanh nghiệp, chúng ta nên bắt đầu từ đâu?
- Nâng cao năng suất lao động ở nhóm doanh nghiệp vừa sẽ rất khác với quá trình này trong doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ. Theo tôi, ưu tiên số 1 phải là doanh nghiệp vừa. Chỉ ở nhóm doanh nghiệp vừa, việc nâng cấp hệ thống quản trị, đào tạo nhân lực, và ứng dụng công nghệ mới mang lại hiệu quả tương đối rõ rệt, đóng góp tốt cho việc tăng năng suất lao động của khối doanh nghiệp nội địa nói riêng và của toàn nền kinh tế nói chung.
Chúng ta cần làm sao để việc tăng năng suất lao động thúc đẩy việc tăng trưởng quy mô doanh nghiệp từ doanh nghiệp vừa trở thành doanh nghiệp lớn. Đến lúc đó, các doanh nghiệp lớn này quay trở lại hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ trở thành doanh nghiệp vừa. Nhà nước phải có chính sách riêng cho doanh nghiệp vừa bao gồm việc thiết kế những ưu đãi gắn với kết quả để thúc đẩy doanh nghiệp vừa áp dụng tiêu chuẩn quốc tế trong sản phẩm và quản trị, tăng cường đào tạo và ứng dụng công nghệ nhằm nâng cao năng suất lao động.
KTSG: Thực tế thì doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ đang chiếm tới khoảng 94% tổng số doanh nghiệp, nghĩa là việc tăng năng suất ở nhóm doanh nghiệp này vô cùng quan trọng. Nhưng như ông nói, họ ít quan tâm tới vấn đề năng suất và cũng bị hạn chế về nguồn lực đầu tư. Bài toán này cần được hóa giải ra sao, thưa ông?
- Với nhóm doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, kinh tế hộ gia đình, Nhà nước phải có chính sách hỗ trợ họ. Chẳng hạn, nhóm doanh nghiệp này phải chuyển đổi số mới tăng được năng suất lao động. Vậy thì, Nhà nước hãy đặt hàng các bộ ngành hay doanh nghiệp một bộ công cụ quản trị cho doanh nghiệp dưới 10 người gồm: quản trị quy trình sản xuất, quản lý khách hàng, quản lý thuế - tài chính... Khi đã chuyển đổi số một cách quyết liệt, không chỉ năng suất lao động của doanh nghiệp được cải thiện mà bản thân họ cũng nhìn thấy động lực tiếp tục đầu tư, ứng dụng công nghệ, nâng cao chất lượng nhân lực để trưởng thành hơn.
Cần xác định ưu tiên
KTSG: Với sự nỗ lực của doanh nghiệp, sự đồng hành của Nhà nước, ông có tin tưởng rằng, việc đặt ra mục tiêu tăng năng suất lao động trung bình 8,5%/năm trong giai đoạn 2026-2030 là khả thi?
- Mục tiêu đó là hợp lý, không quá cao và sẽ làm được. Thứ nhất, Nghị quyết 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân đã xác định kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia, xác định phải tạo môi trường kinh doanh thông thoáng, minh bạch, ổn định, an toàn cho kinh tế tư nhân, kịp thời xây dựng, hoàn thiện pháp luật và cơ chế, chính sách đột phá khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển... Nghị quyết 68 chắc chắn sẽ tạo ra những động lực và dư địa mới cho khu vực kinh tế tư nhân.
Chẳng hạn, việc doanh nghiệp tư nhân được tham gia vào các dự án quan trọng quốc gia như sân bay, đường sắt cao tốc, cảng biển... sẽ mở ra cơ hội rất lớn cho khu vực doanh nghiệp này. Chỉ cần 10 tập đoàn tư nhân đứng ra đầu tư, xây dựng các công trình, dự án này sẽ kéo theo hàng ngàn doanh nghiệp cỡ vừa cùng tham gia và hưởng lợi, tạo nên hiệu ứng “quả bóng tuyết” lan tỏa ra toàn khối doanh nghiệp.
Thứ hai, Việt Nam đã thực hiện chuyển đổi sang mô hình hành chính hai cấp, tinh gọn bộ máy và vẫn đang tiếp tục chuyển đổi số. Những sự đổi mới này, trong thời gian đầu, chưa thể hiện hiệu quả rõ rệt, thậm chí, năng suất lao động có thể còn tăng hơi chậm lại một chút do cần thời gian thích nghi và chuyển đổi. Dù vậy, về lâu dài, đây cũng sẽ là động lực, xung lực giúp nâng cao năng suất lao động.
Tất nhiên, kể cả trong bối cảnh thuận lợi như vậy, chúng ta vẫn nên đặt ra một số ưu tiên. Xu hướng bảo hộ mậu dịch đang gia tăng và lan rộng trên khắp thế giới. Đây là tín hiệu không thể nói là lạc quan với nền kinh tế phụ thuộc lớn vào xuất khẩu như Việt Nam. Ngay từ bây giờ, phải đặt thêm trọng tâm vào thị trường trong nước. Muốn vậy, phải nâng cao tính cạnh tranh, hoàn thiện chuỗi cung ứng và hỗ trợ phù hợp cho khu vực sản xuất, đặc biệt là công nghiệp chế biến, chế tạo.
Bên cạnh đó, chúng ta phải xác định một số ngành công nghệ cao có tính dẫn dắt, thúc đẩy tăng trưởng ở các ngành khác để quan tâm đầu tư hơn vì nguồn lực của Việt Nam có hạn.
Hoàng Hạnh
Bình luận (1)





