Trong quý I/2025, Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) tiếp tục mở rộng quy mô nhưng bức tranh tăng trưởng và chất lượng tài sản cho thấy nhiều điểm cần lưu ý đối với nhà đầu tư lẫn nhà hoạch định chính sách. Dưới đây là phân tích chi tiết của một số chuyên gia ngân hàng về triển vọng, rủi ro và các yếu tố tác động chính tới kết quả kinh doanh của BIDV trong năm 2025.
Tăng trưởng tín dụng chậm, cơ cấu gắn chặt vào bán lẻ và DNNVV
Thống kê cho thấy tổng tài sản BIDV đạt xấp xỉ 2,86 triệu tỷ đồng vào cuối quý I, tăng 3,5% so với cuối 2024. Tuy nhiên, mức tăng này chủ yếu đến từ khoản cho vay liên ngân hàng, vốn tăng tới 22,5%, chứ không nằm ở tín dụng lõi cho nền kinh tế. Dư nợ khách hàng chỉ nhích 2,5%, đạt 2,1 triệu tỷ đồng. Trong đó, mảng bán lẻ tăng 3,4% và phân khúc doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) vươn lên 6,5%.
Ông Nguyễn Minh Đức, chuyên gia phân tích khối ngân hàng tại VCI Research nhận định: “Biên độ tăng chậm của tín dụng lõi một phần phản ánh nhu cầu vay yếu trong bối cảnh giải ngân đầu tư công đầu năm còn trầm lắng. BIDV rõ ràng đang tận dụng lợi thế huy động giá rẻ để đẩy mạnh bán lẻ và DNNVV, nhưng tốc độ giải ngân trong quý I vẫn dưới kỳ vọng của thị trường”.
Việc cơ cấu lại danh mục theo hướng hạ tỷ trọng cho vay mua nhà (từ 31% còn 29,5%) và ưu tiên khách hàng sản xuất kinh doanh giúp giảm phụ thuộc vào lĩnh vực ít sinh lời. Song đổi lại, ngân hàng phải chấp nhận lợi suất cho vay bình quân giảm thêm 3 điểm cơ bản (đcb) do cắt giảm lãi suất ưu đãi để hút khách.
Lãi cận biên (NIM) thu hẹp bất chấp chi phí vốn giảm
Trên mặt bằng lãi suất huy động đã bình ổn sau cú sốc thanh khoản cuối 2022, chi phí vốn bình quân của BIDV chỉ lùi thêm 9 đcb. Ngược lại, lợi suất tài sản sinh lời (IEA) mất tới 11 đcb vì ngân hàng vẫn phải duy trì mức lãi cho vay thấp để hỗ trợ khách hàng, đặc biệt là các gói mua nhà ưu đãi. Khoảng chênh lệch thu - chi thu hẹp khiến NIM quý I giảm thêm 9 đcb - xuống mức gần như thấp nhất trong nhóm ngân hàng quốc doanh.
Bà Lê Thùy Linh, chuyên gia ngân hàng đánh giá: “Việc NIM co lại là hệ quả tất yếu của chiến lược ‘song trụ’ - vừa mở rộng thị phần, vừa giữ chi phí vốn rẻ. Nếu tín dụng không tăng tốc trong hai quý tới, dư địa phục hồi NIM 30 đcb như kế hoạch 2025 của BIDV sẽ khá thách thức”.
Cũng theo bà Linh, kỳ vọng NIM tươi sáng hơn nửa cuối năm gắn liền với hai điều kiện: tốc độ giải ngân bán lẻ, đặc biệt vay mua nhà - phải tăng đều; và lãi suất thị trường liên ngân hàng tiếp tục hạ nhiệt để giảm phụ thuộc nguồn vay này.
Cuối quý I, tiền gửi khách hàng chỉ tăng 1,2% so với cuối 2024, lên 1,98 triệu tỷ đồng, trong khi tín dụng vẫn tăng nhanh hơn. Hệ quả, tỷ lệ cho vay trên tiền gửi (LDR) vọt trở lại vùng sát trần. Để vá “lỗ hổng” thanh khoản, BIDV tăng mạnh huy động từ các tổ chức tài chính (+12,7%) và phát hành trái phiếu (+5,5%), đồng thời hoàn tất đợt phát hành riêng lẻ hơn 4,7 nghìn tỷ đồng nâng vốn tự có.
Theo ông Trần Anh Khoa, Phó Tổng Giám đốc một quỹ đầu tư cho hay, việc duy trì LDR quá cao “không bền vững cả ở phương diện tuân thủ lẫn chi phí vốn”. Ông Khoa dự báo BIDV phải đặt mục tiêu tăng trưởng huy động 15 - 16% trong 2025, cao hơn tín dụng khoảng 1 điểm phần trăm, để tạo “vùng đệm” cho thanh khoản cũng như an toàn vốn.
Chất lượng tài sản
Tỷ lệ nợ xấu báo cáo của BIDV cuối 2024 ở mức 1,2% - thuộc nhóm thấp, nhưng báo cáo quý I/2025 cho thấy một số chỉ báo xấu đi. Tỷ lệ nợ nhóm 2 tăng, chi phí tín dụng dự phòng phải “ăn” thêm vào bộ đệm đã tích lũy. Hệ số an toàn vốn (CAR) cũng suy giảm nhẹ, do danh mục doanh nghiệp sản xuất, vốn có hệ số rủi ro cao mở rộng.
Ông Đức cảnh báo: “Chất lượng tài sản đang thua sút kỳ vọng, buộc BIDV phải gia tăng trích lập trong những quý tới. Trong bối cảnh lợi suất đang thấp, áp lực lợi nhuận sẽ lớn nếu nợ xấu thực phát sinh mạnh hơn”.
Tuy nhiên, ông Đức nhìn nhận điểm tích cực là tín dụng 2025 dự kiến tăng 15%, trong đó bán lẻ và DNNVV đóng góp 16%. “Nếu kiểm soát nợ xấu tốt, nhóm cho vay DNNVV có thể tạo biên lợi nhuận cao hơn doanh nghiệp lớn nhờ định giá rủi ro linh hoạt”, ông nói.
Mặc dù BIDV vẫn đáp ứng các ngưỡng thanh khoản, việc liên tục vận hành sát trần khiến ngân hàng bị xếp hạng tín nhiệm “để mắt” kỹ hơn. Trong 2023-2024, CAR của BIDV giảm do tăng trưởng tài sản rủi ro vượt vốn cấp I. Thêm vào đó, biên lợi nhuận co hẹp làm suy giảm nội lực tạo vốn qua lợi nhuận giữ lại.
Giải pháp của BIDV là tiếp tục gọi vốn riêng lẻ, dự kiến tối thiểu 10 nghìn tỷ đồng - song song bán thêm trái phiếu cấp II. Bà Linh (SSI Research) cho rằng, “nếu BIDV hoàn tất tăng vốn trước quý III, áp lực CAR sẽ dịu bớt, đồng thời giảm phụ thuộc vào kênh liên ngân hàng, từ đó hỗ trợ NIM”.
Lợi nhuận trước thuế (LNTT) quý I đạt khoảng 6 nghìn tỷ đồng, đi ngang so với cùng kỳ nhưng giảm 20% so với quý IV/2024. Thu nhập lãi thuần giảm 10,8%, thu dịch vụ ròng giảm 21,7%. Theo ước tính cập nhật, LNTT cả năm 2025 của BIDV còn 32,6 nghìn tỷ đồng, chỉ tăng 3,9% so với 2024 và thấp hơn 11% so với kế hoạch ban đầu.
Nguồn dự phòng dày dạn tích lũy trước đây đang được “xả” dần để đỡ biên lợi nhuận. Nhưng khi bộ đệm mỏng đi, khả năng trích lập trở lại sẽ gia tăng, nhất là nếu triển vọng kinh tế toàn cầu tiếp tục kém sắc. Trong khi đó, chi phí hoạt động khó giảm nhanh vì ngân hàng phải đầu tư mạnh vào chuyển đổi số và hạ tầng giao dịch.
Định giá cổ phiếu
Với đà điều chỉnh gần đây, giá cổ phiếu BID quanh 41.000 - 42.000 đồng, tương đương -1 độ lệch chuẩn so với trung bình 10 năm. Ông Khoa (quỹ đầu tư) đánh giá: “Đây là mặt bằng định giá phản ánh khá đầy đủ rủi ro ngắn hạn. ROE ước đạt 18% vẫn là mức hấp dẫn so với trái phiếu Chính phủ. Nhà đầu tư dài hạn có thể cân nhắc tích lũy dần, nhưng cần kiên nhẫn bởi nửa sau 2025 lợi nhuận mới có thể cải thiện rõ rệt”.
BIDV đang đứng trước giai đoạn bản lề: cần cân bằng kỳ vọng thị trường, duy trì vai trò “đầu tàu” tín dụng, đồng thời củng cố chất lượng tài sản và an toàn vốn. Tín dụng bán lẻ và DNNVV hứa hẹn tạo lực kéo mới, nhưng chỉ khi ngân hàng giải quyết triệt để bài toán huy động - thanh khoản - nợ xấu. Đối với nhà đầu tư, BIDV hiện là “câu chuyện giá trị” nhiều hơn “câu chuyện tăng trưởng” trong 12 tháng tới. Sự hồi phục của lợi suất, tiến độ tăng vốn và mức độ cải thiện chất lượng tài sản sẽ quyết định độ rộng của biên sinh lời, cũng như mức định giá hợp lý cho cổ phiếu BID.
Bình luận (5)





