Nhu cầu nội địa và đầu tư công sẽ đóng vai trò chủ đạo trong tăng trưởng doanh thu của ngành thép trong năm 2023 khi xuất khẩu suy yếu, theo VDSC.
Báo cáo chiến lược ngành thép 2023 của Công ty Cổ phần Chứng khoán Rồng Việt (VDSC) nhắc lại rằng, ngành thép đã trải qua năm 2022 khó khăn dồn dập ở cả thị trường xuất khẩu và nội địa. Cơn bĩ cực với ngành thép sẽ không sớm kết thúc khi ảnh hưởng tiêu cực của các xung đột địa chính trị, suy thoái kinh tế sau COVID và lạm phát khó hạ nhiệt nhanh chóng trong năm 2023.
VDSC nhận định đầu tư công có thể hỗ trợ tiêu thụ trong nước quý IV/2022 và năm 2023. Cụ thể, kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025, tổng vốn kế hoạch đầu tư công giai đoạn 2021-2025 đạt 2,8 triệu tỷ đồng, tăng 43,5% so với kế hoạch giai đoạn 2016-2020. Giải ngân đầu tư công đã tăng tốc dần trong quý IV/2022.
Các dự án giao thông chiếm tỷ trọng lớn khi tổng chi đạt 507.400 tỷ đồng, chiếm 47% kế hoạch phân bổ vốn đầu tư trung hạn nguồn ngân sách trung ương. Do đó, các nhà sản xuất thép xây dựng như Hòa Phát, Formosa, Thép Pomina có thể hưởng lợi.
Trái ngược với đầu tư công, ngành bất động sản trong năm 2023 được dự báo sẽ trầm lắng, chưa phục hồi ngay. Theo đó, nguồn vốn vào các dự án bất động sản dân dụng đang tắc nghẽn do sự thắt chặt kiểm soát tín dụng ngân hàng, phát hành trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ và niềm tin nhà đầu tư suy giảm sau các sự kiện pháp lý liên quan đến một số doanh nghiệp bất động sản lớn.
Số liệu của Bộ Xây dựng cho thấy 9 tháng năm 2022, số lượng dự án được cấp phép và đủ điều kiện mở bán nhà ở thương mại giảm lần lượt 49% và 24% so với cùng kỳ năm 2021. Số lượng dự án đất nền và du lịch nghỉ dưỡng giảm lần lượt 56% và 54%.
Vấn đề lệch pha cung cầu sẽ chưa sớm thể biến mất trong ngắn hạn, trong khi lãi suất cho vay mua nhà tăng nhanh sẽ làm giảm khả năng hấp thụ của các dự án.
Cơ hội phục hồi xuất khẩu thép từ giữa năm 2023
Về mảng thương mại quốc tế, VDSC nhận định lạm phát tăng nhanh và làn sóng thắt chặt chính sách tiền tệ toàn cầu làm giảm nhu cầu đầu tư và tiêu dùng, kéo theo tiêu thụ thép yếu dần từ quý III/2022. Xuất khẩu thép sẽ tiếp tục trầm lắng trong các quý I, II và đến giữa năm 2023 mới phục hồi khi áp lực tăng lãi suất dịu bớt trên toàn cầu.
ASEAN được dự báo dẫn đầu tăng trưởng về tiêu thụ thép nhờ định hướng đầu tư mạnh mẽ cho cơ sở hạ tầng. Còn tiêu thụ thép của Mỹ vẫn tăng trưởng trong năm 2022 và 2023 nhờ nhu cầu ô tô bật tăng sau dịch, chuỗi cung ứng bớt tắc nghẽn và đầu tư cho khai thác năng lượng tăng.
Ngược lại, châu Âu sẽ suy thoái nhẹ trong năm 2023 khiến nhu cầu thép của khu vực này suy giảm liên tục năm thứ hai liên tiếp. Tăng trưởng sản xuất và tiêu dùng của châu Âu có thể bị giới hạn trong vài năm do giá năng lượng cao.
VDSC cho rằng dù được sự báo sẽ phục hồi, xuất khẩu thép trong nửa cuối năm 2023 vẫn khó bật tăng mạnh trong bối cảnh ngày càng nhiều thách thức về cạnh tranh và rào cản thương mại.
Cụ thể, Trung Quốc tăng xuất khẩu bù đắp cho nhu cầu trong nước yếu. Niềm tin người mua nhà suy giảm do chính sách Zero COVID kéo dài và nhiều nhà phát triển bất động sản phá sản. Đầu tư công là một yếu tố tích cực nhưng không đủ kích thích nhu cầu thép nội địa phục hồi mạnh.
Trong khi đó, Mỹ nới hạn ngạch nhập khẩu cho thép Nhật, EU và UK từ đầu năm 2022; EU gia tăng biện pháp bảo hộ đối với tôn mạ (nhóm 4A) của Việt Nam từ 1/7/2022 đến 30/6/2024. Ngoài ra, các nhà sản xuất thép EU đang vận động EC áp thuế CBPG với thép nhập khẩu.
Dựa trên dự báo về tình hình tiêu thụ thép trong nước và xuất khẩu, VDSC nhận định nhu cầu thép thế giới khó phục hồi mạnh trong năm 2023.
Cũng như giá thép, giá các nguyên liệu sản xuất thép được kỳ vọng dao động trong biên độ hẹp quanh mặt bằng giá cuối năm 2022 do nhu cầu dự trữ nguyên vật liệu của các nhà máy thượng nguồn trên toàn cầu thấp và chỉ nhỉnh hơn vào cuối năm.
Điều này sẽ hỗ trợ biên lợi nhuận gộp của các doanh nghiệp, cả thượng nguồn như Hòa Phát, Formosa, Thép Pomina và hạ nguồn như Nam Kim, Hoa Sen, SMC… sẽ mở rộng nhẹ từ quý III trở đi trên cơ sở xuất khẩu phục hồi.
Tuy nhiên, gánh nặng VND mất giá và lãi suất tăng vẫn lớn. Các doanh nghiệp đang và sẽ giới hạn tác động của vấn đề tỷ giá và lãi suất thông qua thắt chặt nhu cầu vay mượn và quản trị vốn lưu động chặt chẽ hơn.
Bình luận (6)