Hãy là người đầu tiên thích bài này
Lãi suất huy động tăng gây áp lực NIM ngân hàng

Trong bối cảnh nhà điều hành vẫn ưu tiên duy trì chính sách hiện tại, biên lãi ròng của các ngân hàng vẫn sẽ chịu ảnh hưởng trong thời gian tới. Nhất là đối với nhà băng có tỷ lệ thu nhập từ tín dụng cao chắc chắn hoạt động kinh doanh gặp khó hơn.

Hệ thống ngân hàng đang đi vào giai đoạn cao điểm về giải ngân với tín dụng toàn hệ thống tính đến cuối tháng 11/2025 đã tăng khoảng 16% so với hồi đầu năm. Đây là mức cao nhất 10 năm. Mặc dù vậy, Ngân hàng Nhà nước (SBV) vẫn chưa tiến hành điều chỉnh tăng chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho các ngân hàng thương mại (NHTM) trong các tháng cao điểm cuối năm nay theo thông lệ như mọi năm (thường trong tháng 10, 11), kể từ sau lần “nới” room tín dụng vào cuối tháng 7/2025.

Tính đến cuối quý III, nhiều ngân hàng đã chạm mục tiêu tăng trưởng tín dụng cả năm 2025 như OCB, VietinBank, Nam A Bank… Trong khi đó, SBV vẫn chưa có động thái nới thêm tín dụng.

Cùng với bối cảnh đó, áp lực thanh khoản cuối năm đã và đang đẩy mặt bằng lãi suất huy động của các nhà băng tăng để hút vốn. Thống kê từ các chuyên gia Chứng khoán Rồng Việt (VDSC) cho thấy các ngân hàng thương mại (NHTM) cổ phần đã bắt đầu nâng dần các mức lãi suất huy động từ tháng 10, và tăng mạnh hơn trong tháng 11.

Ths.Nguyễn Thành Nam, giảng viên khoa Ngân hàng, Học viện Ngân hàng cho rằng  lãi suất có xu hướng tăng lên để hỗ trợ sức mạnh VND trong bối cảnh áp lực tỷ giá gia tăng. Theo số liệu tính toán, trong 10 tháng đầu năm 2025, đồng VND đã mất giá khoảng 3,8% so với USD và mất giá khoảng 13% so với EUR. Khi VND bị trượt giá, lãi suất đóng vai trò hỗ trợ, giúp duy trì biên độ VND - USD phù hợp để giữ ổn định tỷ giá và kiểm soát kỳ vọng thị trường.

Ngoài ra, đó còn là yếu tố lạm phát. Nếu tiếp tục giảm lãi suất huy động và lãi suất cho vay, điều này có thể khiến tiết kiệm giảm, tiêu dùng tăng, đồng thời tăng trưởng tín dụng nhanh hơn, từ đó tạo sức ép lạm phát có thể tăng trong năm 2026.

“Lãi suất cho vay khó giảm thêm chủ yếu do yếu tố nội tại của hệ thống tài chính Việt Nam chứ không phải từ chính sách của FED”, ông Nam nhận xét.

Ông Nguyễn Thế Minh, Giám đốc Phân tích và Nghiên cứu CTCP Chứng khoán Yuanta Việt Nam lại nhìn nhận đây là hiện tượng mang tính chu kỳ. “Cuối năm, các ngân hàng thường phải chạy đua buộc các ngân hàng tăng trưởng tín dụng nhằm làm căn cứ để NHNN xét duyệt chỉ tiêu tín dụng năm sau. Từ đó, họ buộc phải phải tăng huy động đầu vào, khiến lãi suất trên thị trường tăng”.

Ông Minh chỉ ra các NHTM không còn huy động được trái phiếu quốc tế do lãi suất đồng USD quá cao. Cùng với đó, nguồn vốn trong nước từ khách hàng tổ chức giảm do doanh nghiệp cũng đem tiền đi đầu tư hoặc đưa vào sản xuất. Từ đó các ngân hàng chủ yếu huy động từ cá nhân thông qua việc tăng lãi suất tiền gửi.

Lý do thứ ba, theo ông Minh, trong tháng 10 tăng trưởng tín dụng khá mạnh từ nhóm bất động sản. Nhiều khả năng, một phần vay là để đảo nợ và một phần là cho dự án mới được cấp phép. Điều này khiến cho vay tăng đột biến, do đó các ngân hàng phải tăng huy động.

SBV sẽ cấp thêm hạn mức tín dụng khi Fed giảm lãi suất?

Theo quan điểm của các chuyên gia Chứng khoán Rồng Việt (VDSC), động thái điều hành của SBV thể hiện quan điểm điều hành chính sách tiền tệ chặt chẽ hơn nhằm đảm bảo ổn định mặt bằng lãi suất cho hệ thống ngân hàng trong bối cảnh thanh khoản đang căng thẳng hơn (khi tỷ lệ cho vay/tiền gửi nhiều ngân hàng lớn đang tiến sát ngưỡng tối đa 85% vào cuối quý III/2025), và đồng thời kiểm soát áp lực tỷ giá (thông qua kiểm soát tín dụng và cung tiền), vốn cũng đang rất thách thức, trong giai đoạn cuối năm.

VDSC cũng không loại trừ khả năng SBV có thể nới room tín dụng sau khi Fed cắt giảm lãi suất sau cuộc họp tháng 12, tuy nhiên đơn vị này vẫn nghiêng về khả năng NHNN giữ nguyên quan điểm điều hành thận trọng như hiện tại tới hết năm, hay không nới thêm hạn mức tăng trưởng tín dụng nữa.

Áp lực NIM của các ngân hàng

NIM (đầy đủ là: Net Interest Margin, biên lãi ròng) là phần chênh lệch giữa thu nhập từ lãi và chi phí lãi phải trả của ngân hàng. Nói cách khác, NIM là phần chênh lệch lãi suất giữa hoạt động huy động vốn (lãi tiền gửi) và hoạt động đầu tư (lãi cho vay) của ngân hàng.

Bối cảnh hiện tại với áp lực từ chi phí huy động và cạnh tranh lãi suất cho vay rõ ràng ảnh hưởng không nhỏ đến NIM của các ngân hàng. Số liệu từ Chứng khoán SSI cho thấy NIM toàn hệ thống giảm nhẹ 4 điểm cơ bản so với quý trước xuống mức 3,14% trong quý III/2025.

Ông Nguyễn Thế Minh cho rằng xu hướng NIM giảm đã kéo dài liên tiếp trong khoảng 2-3 năm vừa qua. Theo vị chuyên gia này, nguyên nhân lớn nhất đến từ việc yêu cầu của Chính phủ đối với ngành ngân hàng duy trì mặt bằng lãi suất thấp nhằm hỗ trợ nền kinh tế hồi phục, ưu tiên cho tăng trưởng.

“Trong bối cảnh nhà điều hành vẫn ưu tiên duy trì chính sách hiện tại, biên lãi ròng của các ngân hàng vẫn sẽ chịu ảnh hưởng trong thời gian tới. Nhất là đối với nhà băng có tỷ lệ thu nhập từ tín dụng cao chắc chắn hoạt động kinh doanh gặp khó hơn”, ông Minh nói.

Vị chuyên gia này khẳng định việc tăng vốn sẽ là yếu tố quan trọng sống còn với ngân hàng khi áp lực NIM ngày càng co hẹp, tỷ lệ tín dụng/tiền gửi ngày càng cao. Dữ liệu NHNN cho thấy tiền gửi toàn hệ thống đến cuối tháng 9/2025 đã đạt gần 16,2 triệu tỷ đồng. Trong khi đó, tín dụng toàn hệ thống cùng giai đoạn tăng 13,86% đạt 17,78 triệu tỷ đồng. Như vậy, huy động vốn đang thấp hơn dư nợ tín dụng tới 1,6 triệu tỷ đồng. 

Ngoài ra, áp lực từ việc cạnh tranh huy động vốn, khó khăn phát hành trái phiếu trong nước, trái phiếu quốc tế, sẽ càng tạo động lực cho các ngân hàng tăng vốn để cải thiện chi phí vốn đầu vào. “Dù vậy, xu hướng TTCK nói chung và cổ phiếu nhóm ngân hàng lình xình thời gian gần đây, với thanh khoản thấp, rõ ràng có thể ảnh hưởng đến kế hoạch phát hành cổ phần của ngân hàng”, ông Minh đánh giá.

BSC Research nhìn nhận trước xu hướng NIM khó có thể quay trở lại thời kỳ hoàng kim trung bình ngành (mức trên 4%). Do đó, nhiều ngân hàng đang tập trung cải thiện nguồn thu ngoài lãi qua việc mở rộng hệ sinh thái bán chéo, điển hình là thành lập công ty bảo hiểm nhân thọ của riêng mình. Có thể thấy, sau khi TCB thành lập TCLife, VPB cũng đã có kế hoạch thành lập công ty bảo hiểm nhân thọ, và dự kiến còn nhiều ngân hàng khác cũng sẽ dần đi theo xu hướng này như VIB.

Ngoài ra, các mảng kinh doanh mới như sàn giao dịch vàng và sàn giao dịch tài sản mã hóa sẽ là động lực trong dài hạn, khi BSC Research cho rằng giai đoạn đầu thí điểm sẽ mất nhiều thời gian và chi phí để nghiên cứu sản phẩm và hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, từ đó triển khai trên tinh thần thận trọng và chưa thể đóng góp nhiều vào KQKD trong ngắn hạn.

Hóa Khoa-Đình Vũ

Link gốc

Bình luận

Chưa có bình luận
Hãy là người đầu tiên bình luận cho bài viết này.

FIREANT MEDIA AND DIGITAL SERVICE JOINT STOCK COMPANY

Giấy phép MXH số 251/GP-BTTTT do Bộ TTTT cấp ngày 23/05/2022
Chịu trách nhiệm nội dung: Ngô Minh Long